THỜ CÚNG TỔ TIÊN (BÀI 3) - HỌ PHẠM QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
                       

THỜ CÚNG TỔ TIÊN

TỪ ĐƯỜNG PHÁI, TỪ ĐƯỜNG CHI VÀ GIA TỪ                 

Phạm Thúc Hồng

I/ TỪ ĐƯỜNG PHÁI, TỪ ĐƯỜNG CHI

          Tùy theo đặc điểm tình hình sinh hạ và điều kiện sinh sống, từng Phái, từng Chi thường xây dựng từ đường riêng để thờ vị Cao tổ khai lập ra Phái, hoặc Chi của mình.

-Từ đường Phái, từ đường Chi là những từ đường thờ các vị Tổ thuộc các thế hệ sau Thủy tổ, là từ đường trung gian giữa từ đường Thủy tổ và gia từ.

          Từ đường Phái, Từ đường Chi có bài vị riêng, biểu thị là nhà thờ riêng của Phái hoặc Chi.

          Từ đườngPhái, từ đường Chi cũng bố trí 3 hoặc 5 gian thờ nhưng bài vị thờ trong từ đường Phái, từ đường Chi khác với từ đường Thủy tổ

1/GIAN GIỮA

Gian giữa từ đường Phái, thờ bài vị ông Tổ đầu Phái ; từ đường Chi, thờ bài vị ông Tổ đầu Chi.

Bài vị thờ trong từ đường Phái, từ đường Chi khác với từ đường Thủy tổ ở chi tiết là phải ghi hệ thống trực thuộc, và họ tên ông Cao Tổ đứng đầu Phái hoặc Chi.

Minh họa

Bài vị nhà thờ Chi 3 (trực thuộc Phái 2 tộc Nguyễn Văn), ông Tổ đầu Chi là đời thứ sáu.

Cẩm An
Nguyễn Văn tộc Phái 2 * CHI   3 Đời thứ 6 Nguyễn Văn Hà
 Phạm Thị Hợi
linh vị

2/ GIAN ĐÔNG VÀ GIAN TÂY       

Thờ các ông Tổ qua nhiều đời hữu tự và vô tự của riêng Phái hoặc Chi

Minh họa

 Bài vị nhà thờ Chi 3 (trực thuộc Phái 2 tộc Nguyễn Văn), ông Tổ đầu Chi là đời thứ sáu. Đây là bài vị thờ nhiều thế hệ Cao tổ nên không ghi thế hệ thứ mấy vào bài vị.

Cẩm An
 Nguyễn Văn tộc Phái 2 * CHI   3 Lịch đại Cao Tổ hữu tự linh vị
 Cẩm An
Nguyễn Văn tộc Phái 2 * CHI   3 Lịch đại Cao Tổ vô tự linh vị

          Từ đường Phái, Chi cũng thờ “Tả tùng tự, Hữu tùng tự” như từ đường Thủy tổ.

II/ GIA TỪ

Gia từ là nhà thờ của một gia đình. Gia đình thờ cúng trong mối quan hệ 4 đời từ: Tằng tổ trở xuống đến gia chủ. 

-Cháu thờ ông bà Cố ghi bài vị là Tằng tổ.

-Cháu thờ ông bà Nội, ghi bài vị  Nội tổ.

-Con thờ cha mẹ, ghi bài vị là Phụ mẫu.

Minh họa bài vị

 Gia từ (trực thuộc Chi 3, Phái 2  tộc Nguyễn Văn, tổ quán Cẩm Phô), ông Tằng tổ trong gia đình là đời thứ tám.

           Cẩm Phô Nguyễn Văn tộc Phái 2 Chi 3 Đời thứ 8 Tằng Tổ Nguyễn Văn Ánh Trần Thị  Bình tôn linh
Cẩm Phô  Nguyễn Văn tộc Phái 2 Chi 3 Đời thứ 9 Nội Tổ Nguyễn Văn Quang Phạm Thị  Dĩnh tôn linh
Cẩm Phô Tộc Nguyễn Văn Phái 2 Chi 3   Đời thứ 10 Phụ Mẫu Nguyễn Văn Hùng Huỳnh Thị  Vân tôn linh

Đến khi người con trưởng chết, người cháu trưởng đứng cúng thì phải lập lại hệ thống bài vị trên, tăng thêm một bậc.

          Lúc đó thần vị Tằng tổ tăng lên bậc Cao tổ. Con cháu chôn hoặc đốt bài vị ông Cao tổ và rước vào thờ trong nhà thờ Thủy tổ, gọi là hợp tự. 

          Vì vậy, các gia đình chỉ ghi thứ bậc, không ghi tên họ trong bài vị nhằm sử dụng lâu dài mà không trái với luật “Ngũ đại mai thần chủ” vì tên họ đã có trong gia phả đặt trên bàn thờ.

Cẩm Phô  Nguyễn Văn tộc Phái 2 Chi 3 * GIA TỪ Tằng Tổ Nội Tổ Phụ Mẫu linh vị

Bắc bộ và Trung bộ thường có nhà thờ tộc (gọi là từ đường) thờ cúng Tổ tiên của dòng họ mình.

            Nam bộ ít có nhà thờ tộc mà có gia từ là nơi thờ cúng của dòng họ. Gia từ cũng chính từ đường của người Nam bộ.

Gia từ do người con trưởng hoặc đích tôn tiếp quản và tổ chức cúng giỗ theo tài sản ông bà, cha mẹ để lại gọi là thừa tự hương hỏa.

III/ THẤT TỰ, VÔ TỰ, TUYỆT TỰ

Thất tự, vô tự là hiện tượng mất và không có con cháu nối đời do các nguyên nhân sau:

Một là: Thất tự 失 嗣 (Thất 失 : Mất, hết ; Tự 嗣: Nối đời, con cháu tiếp theo)  là hiện tượng mất hoặc hết con cháu nối đời.

Trường hợp này xảy ra trong những tình huống:

-Do hoàn cảnh sinh sống, chiến tranh, mâu thuẫn nội bộ con cháu thất tán nhiều nơi.

-Truy sát đẫm máu vì tranh giành quyền lực, tư thù, (Nguyễn Trãi thọ án tu di tam tộc ; Nguyễn Ánh truy sát con cháu nhà Tây Sơn. . .)

Hai là: Vô tự 無 嗣 là hiện tượng không có con nối đời do không có quan hệ hôn nhân và khả năng sinh sản.

Ba là: Tuyệt tự 絕 嗣 (Tuyệt 絕: Dứt, hết) là hiện tượng một dòng tộc không còn có bất cứ một ai nối đời. Đây là hiện tượng tiến hóa tự nhiên trong xã hội loài người.

Vô tự, thất tự, tuyệt tự  nghĩa là không có con cháu nối đời ; không có nghĩa là không có người thờ cúng.

Theo lễ tục truyền thống, những người không có con cháu nối đời được thờ cúng nghiêm cẩn tại gia từ và từ đường tộc, thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong lễ tục thờ cúng Tổ tiên với những hình thức sau đây:

1/Tại từ đường Tộc, Phái, Chi đều có bàn thờ gian phía Tây/Trái/Tả thờ bài vị:

Lịch đại Cao Tổ vô tự liệt vị
(Các vị Tổ không con cháu nối đời trải qua nhiều thế hệ)

Ngoài ra còn thiết trí 2 bàn thờ “Tả tùng tự”, “Hữu tùng tự”.

          2/Văn cúng cổ truyền thỉnh mời “Chánh” và “Tùng”

          Ví dụ: Thỉnh mời ông cố về dự giỗ, viết và đọc:

+Tằng tổ khảo tỷ tôn linh
 (Tôn linh Ông bà cố)
+Tùng: Tằng tổ bá, thúc, cô tôn linh

      (Theo hàng: Ông bà cố bác, Ông bà cố chú, Bà cố cô.) 

Phần phối thỉnh luôn luôn có câu:

+Vô tự tùng tự đồng lai phối hưởng
(Người không con cháu nối đời,theo hàng thờ cúng, cùng đến hưởng lễ)

Do vậy, người không con cháu nối đời được thờ cúng tại gia từ và từ đường các cấp.

Một  dòng  tộc tuyệt tự là dòng tộc không còn  trên thực tế. Một dòng tộc có danh tiếng, có từ đường quy mô thì những giá trị văn hóa, tài sản đó sẽ thành giá trị của cộng đồng làng xã một khi dòng họ đó chuyển sang giai đoạn tuyệt tự. Từ đường vô chủ có thể chuyển dụng thành đình Tiền Hiền, miếu Thổ Thần, trường học  hoặc bị hư sập hoàn toàn, đất vườn dòng tộc trở thành công thổ. 

By Editor

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *