GIA PHẢ CHỮ HÁN (BÀI 5) - HỌ PHẠM QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
                       

GIA PHẢ CHỮ HÁN

                                                                                    Phạm Thúc Hồng

I/QUÁ TRÌNH RA ĐỜI GIA PHẢ CHỮ HÁN

Quốc gia có quốc sử, quốc pháp. Gia tộc có gia phả, gia quy.

            Gia phả (còn gọi tộc phả, tông phả, phả hệ)  là  bản ghi chép theo thứ tự sinh hạ gồm tên, tuổi, quê quán, ngày sinh, mất, tên vợ con . . . của một gia đình dòng tộc.

Tông đồ là bản vẽ đường dẫn huyết thống sinh hạ trong một dòng tộc.

            Trong một dòng tộc, cá nhân không thể viết được toàn bộ gia phả mà chỉ kế thừa đời trước và truyền lại đời sau.

Nếu không có gia phả và tông đồ sẽ không có dòng tộc.

Các dòng dõi vua quan gọi gia phả của vương triều mình hay gia tộc mình bằng từ ngữ trân trọng như Ngọc phả, Ngọc điệp…

(Ngọc điệp 玉 牒: Gia phả dòng tộc cao quýNgọc điệp 玉 牒: Gia phả dòng tộc cao quý)

Lúc đầu, gia phả xuất hiện chỉ trong Hoàng tộc cùng giới quan lại.

Gia phả đầu tiên của nước ta là Hoàng Triều Ngọc Điệp của nhà Lý soạn vào năm 1026.

-Nhà Trần có Hoàng Tông Ngọc Điệp.

-Nhà Lê có Hoàng Lê Ngọc Phả

-Nhà Nguyễn lập Tôn Nhân phủ và Bản triều Ngọc phả

Cùng với sự xuất hiện các gia phả của Hoàng tộc là gia phả của các danh gia, quan lại rồi lan rộng đến tầng lớp bình dân.

Trước đây, gia phả chủ yếu được ghi chép bằng chữ Hán – Nôm

Sau năm 1945, nhiều bản gia phả lập bằng 3 văn tự song song : chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.

Ngày nay, hầu hết gia phả được viết bằng chữ Quốc ngữ

Tục làm gia phả phát triển mạnh ở hai miền Bắc bộ và Trung bộ. Nam bộ rất ít gia đình làm gia phả mà chỉ lập tông đồ.

II/CÁCH XƯNG HÔ TRONG GIA PHẢ CHỮ HÁN

Gia phả chữ Hán do người trưởng tộc đứng tên lập và làm vị trí trung tâm để xưng hô (xưng hô theo quan hệ với trưởng tộc).

Do vậy việc lập gia phả rất phức tạp khi phân chia Phái, Chi, xưng hô theo trực hệ, bàng hệ …

Sau đây là bảng đối chiếu xưng hô:

1/ THẾ HỆ TRƯỚC NGƯỜI LẬP GIA PHẢ

Quan hệTừ ngữ Hán ViệtTừ ngữ thuần Việt
Trực hệThân phụ, thân mẫuCha, mẹ ruột
Hiển khảo tỷCha mẹ đã mất
Tổ phu, tổ mẫuÔng, bà Nội
Hiển tổ khảo, tỷÔng, bà Nội đã mất
Tằng tổ khảo, tỷÔng, bà Cố
Cao tổ khảo, tỷÔng, bà Tổ
Cao cao tổ khảo, tỷCha  mẹ của ông bà Tổ
Cao Cao Cao tổ khảo, tỷCha  mẹ của ông bà Tổ
Cứ thêm một đời trước đời Cao Tổ thì thêm 1 chữ Cao
Thủy TổÔng Tổ đời thứ nhất
Thái Thủy TổCha của ông Thủy Tổ 
Thái Thái Thủy TổÔng Nội của ông Thủy Tổ
Thái Thái Thái Thủy TổÔng Cố của ông Thủy Tổ
Cứ thêm một đời trước đời Thủy tổ thì thêm 1 chữ Thái
Bàng hệBá khảo tỷVợ chồng bác
 Thúc khảo tỷVợ chồng chú
Tổ Bá khảo tỷÔng bà Nội bác
Tổ Thúc khảo tỷÔng bà Nội chú
Tổ CôBà Nội cô 
Tằng Tổ bá khảo tỷÔng bà Cố bác
Tằng Tổ thúc khảo tỷÔng bà Cố chú
Tằng Tổ côBà Cố cô
Cao Tổ Bá khảo tỷÔng bà Tổ bác
Cao Tổ thúc khảo tỷÔng bà Tổ chú
Cao Tổ côBà Tổ cô

2/ THẾ HỆ NGANG HÀNG NGƯỜI LẬP GIA PHẢ         

Quan hệTừ HánTừ thuần Việt
Trực hệKỷ thân, bản thânMình
(Người lập gia phả)
Thân (bào) huynhAnh trai ruột
Thân (bào) tỉChị gái ruột
Thân (bào) đệEm trai ruột
Thân (bào) muộiEm gái ruột
Quan hệ
hôn nhân
Hôn tỷ , hôn muộiChị dâu,  em dâu
Luyến huynh, luyến đệAnh rể, em rể
Bàng hệĐường huynh, đệ, tỷ, muộiAnh trai, em trai chị gái, em gái cùng ông nội 
Đồng đường huynh, đệ, tỷ, muộiAnh trai, em trai chị gái, em gái cùng ông Cố 
Đồng tộc huynh,  đệ, tỷ, muộiAnh trai, em trai, chị gái, em gái cùng tộc.

3/ THẾ HỆ SAU CỦA NGƯỜI LẬP GIA PHẢ

Quan hệTừ ngữ Hán ViệtTừ ngữ thuần Việt
Trực hệ  Thân tử, bào tửCon ruột
Thân tôn, nội tônCháu nội
Tằng tônCháu xưng với ông cố
Huyền tônCháu xưng với ông tổ
Nhĩ tônCháu 10 đời trở lên
Viễn tônCháu xa hàng chục đời trở lên
Tự tônCháu nối đời
Bàng hệĐiệt tônCháu gọi bằng bác, chú, cô

C/ HẠN CHẾ TRONG GIA PHẢ CHỮ HÁN

Khi tra cứu Gia phả chữ Hán gặp phải những khó khăn sau:

1/Phần ghi sinh hạ các thế hệ do Tộc trưởng đứng lập, xưng hô nhiều từ Hán cổ làm thế hệ sau khó tra cứu.

            2/Bách gia tính là sách xuất hiện trong thời cổ đại Trung Quốc. Trong Bách gia tính mỗi tộc có tổ quán riêng.

            Khởi đầu sách “Bách gia tính”, tổ quán Thiên Thủy của tộc Triệu nêu ra trước tiên. Tộc Phạm có tổ quán là quận Cao Bình, tộc Nguyễn có tổ quán  là quận Trần Lưu, v.v…

            Ngày nay, Bách gia tính không còn phù hợp và không nên áp dụng sẽ gây sự nhầm lẫn giữa địa danh trong sách Bách gia tính và địa danh thực tế của Việt Nam.

            3/Viết gia phả cổ viết bằng hai màu mực:

-Mực đỏ: Viết tên những người đang sống.

-Mực đen: Viết tên những người đã mất.

            Một khi người có tên mực đỏ qua đời thì dùng mực đen viết lấp đi màu đỏ.

            4/Gia phả cổ được viết bằng chữ Hán, bảo quản kính cẩn trên bàn thờ. Gia phả chỉ mở ra khi cúng tế. Con cháu không được tùy tiện xem đọc.

Do vậy tạo ra mâu thuẫn: Muốn giáo dục truyền thống tông tộc nhưng con cháu khó tiếp cận với những thông tin trong gia phả.

            Quốc sử cần toàn dân hiểu thì tộc phả cần in sao phổ biến toàn tộc.

Do những khó khăn trên, Gia phả thời nay có sự tiếp biến, cải biên phù hợp thực tế.

Nội dung đề tài này thể hiện trong bài viết “Gia phả ngày nay” sẽ được đăng tải tiếp theo.

By Editor

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *